Lưu giữ nét quê

LŨY TRE LÀNG

Tuổi thơ tôi có nhiều kỷ niệm sâu lắng về lũy tre làng. Đi xa, mỗi lần về thăm quê, nhìn thấy lũy tre làng lại thấy lòng bồn chồn, rạo rực. Những thảm xanh vươn lên trời mây, sừng sững, bề thế, vững chãi và rất gần gũi. Trước nhà tôi có hai bụi tre. Mỗi buổi trưa hè thật là sảng khoái, thanh thản khi nằm trên võng đay đung đưa dưới bờ tre. Gió từ đồng xa thổi về mát lộng. Tiếng gió xạc xào trên lũy tre cứ đi dần vào giấc ngủ, êm đềm như lời ru. Những hôm chăn trâu ở đồng xa, tôi vẫn nhìn ngắm lũy tre làng. Chộn rộn nhất là lúc hoàng hôn, khi những áng mây chiều chuyển màu vàng đậm hoặc hồng tươi, sắc tím hoàng hôn như từ lũy tre làng ùa ra, hòa vào ngọn gió. Tôi thích ngắm những đàn cò trắng bay về lũy tre làng. Thích là vậy, nhưng trèo lên ngọn tre tìm tổ cò vẫn là thú vui của lớp trẻ chăn trâu chúng tôi. Trèo tre rất khó và phải thận trọng, nếu không sẽ bị gai tre cứa vào mặt, kéo toạc cả quần áo.


      

        Tôi không thể nào quên được những mầm măng tre vừa nhú lên khỏi mặt đất sau mưa. Nó nhọn hoắt, đầu xanh, bẹ vàng, thân trắng, như ẩn chứa những sức mạnh thần kỳ, sức vươn mạnh mẽ. Khi xa quê, nhớ lũy tre làng, nhớ những mầm măng, tôi lại thấy thương bố da diết. Bỗng nhiên, tôi lại nhớ những câu thơ của Nguyễn Duy trong bài “Tre Việt Nam”: ... Thân gầy guộc lá mong manh/Mà sao nên lũy nên thành tre ơi/ ...Có manh áo cộc tre nhường cho măng/Măng non là búp măng non/Đã mang dáng thẳng thân tròn của tre ... Bố tôi giỏi nghề đan lát các đồ dùng bằng mây tre. Ông dạy: “Chặt tre đừng chặt sát gốc, phải chặt cao hơn mặt đất khoảng nửa mét. Để nó còn sinh ra măng”. Tôi thấy những lời dạy của ông thật chí lý, sâu sắc và có hậu.

       

Chúng tôi lớn lên, may mắn dù trong chiến tranh vẫn được ăn học chu đáo, rồi chưa hết chiến tranh nên cầm súng xa nhà đi chiến đấu giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Lũy tre làng cứ theo năm tháng to lớn dần, nối dài, bề thế vòm xanh, trong lành ngọn gió, chở che bão giông cho cả làng. Bố tôi kể lại rằng, nếu như ngày xưa không có lũy tre thì khó đánh giặc khi chúng càn vào làng. Bờ tre thật kín đáo, che chắn đạn và tầm quan sát của địch. Những cái hầm, những công sự của du kích dưới lũy tre thật vững chắc, bởi chằng chịt rễ tre giữ cho hầm hào, công sự không dễ bị sạt lở. Khi tôi lớn lên, làng tôi là điểm dừng chân trên đường hành quân vào Nam chống Mỹ của các đơn vị bộ đội. Cả trung đoàn đóng quân trong làng. Không cần ngụy trang, những chiếc võng bạt của bộ đội mắc dưới lũy tre làng thật kín đáo và thơ mộng nữa. Xe, pháo hành quân qua làng cũng núp dưới lũy tre, không sợ máy bay địch phát hiện. Trong các cuộc kháng chiến bảo vệ làng quê, lũy tre cũng góp phần đánh giặc. Ôi! Lũy tre làng thật là gần gũi, thân thuộc và lợi ích biết bao.

       

        Thế nhưng, trong vài thập niên qua, mỗi lần về quê tôi cứ thấy thiếu vắng một cái gì đó. Trong nỗi nhớ da diết thời tuổi thơ có nỗi nhớ lũy tre làng. Đúng thế! Lũy tre tự bao đời bao bọc, chở che cho làng tôi giờ đây chỉ còn trong ký ức. Lớp trẻ sau này ở quê tôi lớn lên chắc không thể nào hình dung ra lũy tre làng. Về quê bây giờ từ phía xa nhìn không còn thấy lũy tre bề thế vòm xanh nữa. Người ta chặt tre để có đất thay đổi cây trồng, làm ao nuôi thủy sản, phát triển kinh tế gia đình. Người ta chặt tre, lấp cát, đắp nền bán đất. Làng tôi nay đã dần dần đô thị hóa. Người ta chặt hết các bụi tre để xây dựng nhà mới. Thay vào nhà ngói 5 gian khiêm tốn dưới lũy tre là những nhà cao tầng, nhà mái bằng đổ tấm bê tông. Lũy tre làng thân thương và gắn bó, nay còn đâu?…
                                                                                                                              Gia tộc họ Phạm
Liên hệ: hophamhaiphong@gmail.com
Comments